image banner
THÔNG TIN, TƯ LIỆU PHỤC VỤ SINH HOẠT CHI BỘ THÁNG 11 NĂM 2025

I. TIN THÀNH PHỐ

1. Đại hội Thi đua yêu nước thành phố Hải Phòng lần thứ I (2025-2030) - Thành phố đón nhận cờ thi đua xuất sắc của Chính phủ

Sáng 18/10, tại Trung tâm Hội nghị – Biểu diễn thành phố diễn ra Đại hội Thi đua yêu nước thành phố Hải Phòng lần thứ I (2025–2030).

Dự Đại hội có đồng chí Võ Thị Ánh Xuân, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Trung ương; cùng đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương.

Về phía thành phố có các đồng chí: Lê Tiến Châu, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố; Lê Ngọc Châu, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố, Chủ tịch Hội đồng Thi đua – Khen thưởng thành phố; Đỗ Mạnh Hiến, Phó Bí thư thường trực Thành ủy; Lê Văn Hiệu, Phó Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch HĐND thành phố; Phạm Văn Lập, Phó Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch Uỷ ban MTTQ Việt Nam thành phố; các đồng chí trong Ban Thường vụ Thành ủy cùng các đại biểu là các Anh hùng Lao động, Chiến sĩ thi đua toàn quốc; thành viên Hội đồng Thi đua – Khen thưởng thành phố; đại diện lãnh đạo các ban, sở, ngành, đoàn thể; cùng 235 điển hình tiên tiến tiêu biểu giai đoạn 2020–2025 trong toàn thành phố.

Phát biểu khai mạc Đại hội, đồng chí Lê Ngọc Châu, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố, Chủ tịch Hội đồng Thi đua – Khen thưởng thành phố nhấn mạnh Đại hội Thi đua yêu nước thành phố Hải Phòng lần thứ I là sự kiện chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm tổng kết, tôn vinh các điển hình tiên tiến và tạo động lực mới thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2025–2030.

Hưởng ứng Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và Nhân dân hai địa phương Hải Phòng - Hải Dương luôn đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, thi đua lập nhiều thành tích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giai đoạn 2020–2025, phong trào thi đua yêu nước hai địa phương Hải Phòng - Hải Dương được triển khai sâu rộng, toàn diện, gắn với nhiệm vụ chính trị của từng ngành, từng địa phương. Các phong trào trọng điểm như “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Vì người nghèo – không để ai bị bỏ lại phía sau”, “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”, “Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại”... được triển khai đồng bộ, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong toàn xã hội.

Từ ngày 1/7/2025, sau khi hai địa phương hợp nhất, thành phố bước vào giai đoạn phát triển mới với không gian rộng mở, tiềm năng và nguồn lực được tăng cường mạnh mẽ, tạo luồng sinh khí mới, có sức lan tỏa sâu rộng cho các phong trào thi đua yêu nước, góp phần tạo nên những bước đột phá quan trọng.

Nhờ đó, thành phố đạt được nhiều kết quả nổi bật về kinh tế - xã hội; đời sống nhân dân được nâng cao; quốc phòng – an ninh được củng cố; đối ngoại mở rộng. Năm 2025, thành phố vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu “Thành phố Anh hùng”, phần thưởng cao quý ghi nhận những thành tích xuất sắc, toàn diện trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong giai đoạn 2020–2025, toàn thành phố có 1.172 tập thể, cá nhân được Trung ương tặng thưởng Huân chương, Cờ thi đua, Bằng khen, danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc và 21.761 tập thể, cá nhân được UBND thành phố tặng Cờ thi đua, danh hiệu, Bằng khen, Chiến sĩ thi đua. Nhiều gương điển hình tiên tiến tiêu biểu xuất hiện ở mọi lĩnh vực, trở thành những bông hoa đẹp trong vườn hoa thi đua yêu nước của thành phố.

Phát biểu chỉ đạo Đại hội, thay mặt lãnh đạo Nhà nước và Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân ghi nhận, đánh giá cao những kết quả xuất sắc của phong trào thi đua yêu nước, cùng những thành tựu to lớn mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đã đạt được trong thời gian qua. Phó Chủ tịch nước đề nghị Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân thành phố cần phát huy cao độ tinh thần đoàn kết, đổi mới, sáng tạo; chủ động nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế; trong đó công tác thi đua khen thưởng chính là một động lực quan trọng khơi dậy tinh thần sáng tạo, ý chí vươn lên và sức mạnh đoàn kết toàn dân, gắn chặt với quá trình phát triển của thành phố.

Tại đại hội, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân trao cờ thi đua của Chính phủ cho thành phố Hải Phòng vì thành tích xuất sắc, dẫn đầu phong trào thi đua yêu nước cụm thi đua 5 thành phố trực thuộc Trung ương năm 2024.

Phát động phong trào thi đua yêu nước thành phố giai đoạn 2025–2030 với chủ đề “Phát huy truyền thống Thành phố Cảng anh hùng – Xứ Đông văn hiến, thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ I, nhiệm kỳ 2025–2030”, cùng khẩu hiệu hành động “Đoàn kết – Dân chủ – Sáng tạo – Đột phá – Phát triển”, đồng chí Bí thư Thành ủy Lê Tiến Châu nhấn mạnh 6 nội dung trọng tâm: Thứ nhất, phát động phong trào thi đua sâu rộng trong toàn Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân; mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương xác định một việc trọng tâm, một mục tiêu cụ thể, một kết quả rõ ràng, được đo lường bằng tiêu chí định lượng (KPI) cụ thể; thành tích thi đua phải được đánh giá bằng hiệu quả thực chất và sự hài lòng của Nhân dân. Thứ hai, thi đua thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ nhất và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2025–2030, phấn đấu xây dựng Hải Phòng trở thành thành phố cảng công nghiệp hiện đại, văn minh, sinh thái, đáng sống tầm cỡ khu vực Đông Nam Á. Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp đối với công tác thi đua - khen thưởng; đề cao vai trò, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu. Thứ tư, đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức phong trào thi đua theo hướng thiết thực, hiệu quả, tránh phô trương, hình thức, gắn với các nhiệm vụ chính trị trọng tâm của từng ngành, từng địa phương; đồng thời đẩy mạnh công tác phát hiện, tuyên truyền, nhân rộng gương điển hình tiên tiến. Thứ năm, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua - khen thưởng; thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới. Thứ sáu, kiên quyết khắc phục “bệnh hình thức, bệnh thành tích”, bảo đảm thi đua - khen thưởng thực chất, công bằng, đúng người, đúng việc, tôn vinh kịp thời những tập thể, cá nhân cống hiến thật, sáng tạo thật, hiệu quả thật.

Đồng chí Bí thư Thành ủy Lê Tiến Châu kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân thành phố phát huy tinh thần thi đua yêu nước, đoàn kết, sáng tạo, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển, xây dựng Hải Phòng ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, xứng đáng với danh hiệu “Thành phố Cảng Anh hùng – Xứ Đông văn hiến” và niềm tin yêu của Trung ương, của cả nước.

2. Chương trình hành động của Ban Thường vụ Thành uỷ thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo

Ngày 20/10/2025, Ban Thường vụ Thành ủy ban hành Chương trình hành động số 02-CTr/TU về thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Chương trình hành động xác định giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu” và là động lực then chốt thúc đẩy Hải Phòng phát triển bứt phá, đồng thời bảo đảm tính khả thi, đồng bộ với việc triển khai Nghị quyết đặc thù số 226/2025/QH15 của Quốc hội.

Chương trình hành động đặt ra các mục tiêu đến năm 2030 Hải Phòng sẽ trở thành trung tâm giáo dục, đào tạo hàng đầu cả nước, giữ vai trò nòng cốt trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng Đồng bằng sông Hồng và là Trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ, kinh tế biển. Xây dựng thành phố học tập, đến năm 2026 đủ điều kiện để được công nhận “Cộng đồng học tập” cấp tỉnh và năm 2027 đủ điều kiện để tham gia Mạng lưới Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.

Chương trình hành động đề ra các mục tiêu cụ thể đến năm 2030 như hoàn thành quy hoạch mạng lưới trường, lớp học; hoàn thành giai đoạn 1 mô hình “Trường học Xã hội Chủ nghĩa” và triển khai nhân rộng giai đoạn 2. 100% xã, phường, đặc khu đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2; hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi; duy trì vững chắc phổ cập giáo dục tiểu học và THCS mức độ 3; phấn đấu 95% người trong độ tuổi hoàn thành cấp trung học phổ thông và tương đương. Giữ vững vị thế nhóm dẫn đầu cả nước về chất lượng giáo dục phổ thông đại trà và mũi nhọn; bảo đảm chuẩn đầu ra các cấp học ở mức nâng cao, tiệm cận yêu cầu khu vực và quốc tế về năng lực công nghệ, trí tuệ nhân tạo và năng lực tiếng Anh ở bậc phổ thông. 100% cơ sở giáo dục đại học và tối thiểu 85% cơ sở giáo dục nghề nghiệp đạt chuẩn quốc gia, 20% cơ sở được đầu tư hiện đại tương đương các nước phát triển ở châu Á. 100% các trường học ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản lý, giảng dạy, kiểm tra và đánh giá; trên 95% trường phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên, trên 90% cơ sở mầm non đạt mức độ 2 về chuyển đổi số. chỉ số giáo dục đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) đạt trên 0,82…

Đến năm 2035, phát triển giáo dục Hải Phòng hiện đại, sáng tạo, hội nhập quốc tế; đạt trình độ tiên tiến, thuộc nhóm địa phương tiêu biểu Đông Nam Á, từng bước tiếp cận chuẩn châu Á và thế giới. Tầm nhìn đến năm 2045, giáo dục Hải Phòng hiện đại, sáng tạo, hội nhập quốc tế; đạt trình độ tiên tiến, thuộc nhóm địa phương tiêu biểu Đông Nam Á, tiếp cận chuẩn mực châu Á và thế giới.

Chương trình hành động đề ra 8 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để triển khai thực hiện, trong đó tập trung nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy và hành động, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ để đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Đổi mới mạnh mẽ thể chế, tạo cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để phát triển giáo dục và đào tạo. Tăng cường giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ và hình thành hệ giá trị con người Hải Phòng Xã hội chủ nghĩa. Chuyển đổi số toàn diện, phổ cập và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong giáo dục và đào tạo. Tập trung xây dựng đội ngũ nhà giáo và cơ sở vật chất đạt chuẩn, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non và phổ thông. Cải cách, hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp, tạo đột phá phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cao. Hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học, tạo đột phá phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo. Đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế sâu rộng trong giáo dục và đào tạo.

Ban Thường vụ Thành ủy yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong toàn thành phố phải quán triệt sâu sắc, xây dựng kế hoạch cụ thể, thường xuyên kiểm tra, giám sát để đưa Nghị quyết và Chương trình hành động đi vào cuộc sống một cách hiệu quả nhất.

3. Hướng dẫn công tác nhân sự đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2026 – 2031

Ban Thường vụ Thành ủy ban hành Hướng dẫn số 01-HD/TU, ngày 14/10/2025 về công tác nhân sự đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2026 – 2031.

Ban Thường vụ Thành ủy yêu cầu Ban thường vụ đảng ủy các xã, phường, đặc khu thành lập ban chỉ đạo, đồng chí Trưởng ban chỉ đạo là đồng chí bí thư cấp ủy cấp xã để lãnh đạo toàn diện công tác bầu cử; chỉ đạo giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh trong quá trình chuẩn bị và tổ chức bầu cử. Đồng thời quán triệt các Chỉ thị, Kết luận của Bộ Chính trị; Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương; Chỉ thị, Hướng dẫn của Ban Thường vụ Thành uỷ và các văn bản liên quan về bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2026 - 2031 đến toàn thể cán bộ, công chức; các chi bộ, đảng bộ trực thuộc, các cơ quan, đơn vị của địa phương.

Theo hướng dẫn, người ứng cử đại biểu Quốc hội khoá XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026-2031 phải đảm bảo đầy đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đang công tác tại cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước phải bảo đảm các tiêu chuẩn chung theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện như: Là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tiêu biểu; Có uy tín, năng lực trong thực hiện và tuyên truyền, vận động có hiệu quả quần chúng nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Có tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, Nhà nước và của Nhân dân; Có phẩm chất đạo đức, lối sống gương mẫu, trong sáng; thực hiện nghiêm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; Có năng lực cụ thể hóa và tổ chức thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có tư duy đổi mới, tầm nhìn, phương pháp làm việc khoa học…

Không giới thiệu, đưa vào danh sách ứng cử người có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực; có tư tưởng cục bộ, bảo thủ, trì trệ; đang bị điều tra, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm; người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ án, vụ việc tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, mất đoàn kết. Cán bộ có vi phạm khuyết điểm hoặc bị thi hành kỷ luật trong nhiệm kỳ 2021 - 2026; cán bộ có người thân vi phạm pháp luật thực hiện theo Kết luận số 165-KL/TW; cán bộ có người thân vi phạm pháp luật.

Quan tâm, giới thiệu chuyên gia đầu ngành về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, công nghiệp công nghệ cao; luật gia giỏi có uy tín, am hiểu sâu về pháp luật quốc tế; doanh nhân xuất sắc, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân.

Ngoài các tiêu chuẩn chung, hướng dẫn cũng nêu các tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể của người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.

Thời điểm tính độ tuổi tham gia đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách khóa XVI, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp hoạt động chuyên trách nhiệm kỳ 2026 - 2031 là tháng 3/2026. Đối với người lần đầu ứng cử phải đủ tuổi tham gia hai khóa Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân trở lên, ít nhất trọn một khóa; nam sinh từ tháng 3/1969, nữ sinh từ tháng 9/1972 trở lại đây. Đối với đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở thành phố tái cử; đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách tái cử (trừ các đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng) phải còn thời gian công tác ít nhất từ 36 tháng trở lên (nam sinh từ tháng 3/1967; nữ sinh từ tháng 5/1971 trở lại đây).

Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách là cán bộ Quân đội, Công an thực hiện độ tuổi theo quy định tại Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và Luật Công an nhân dân. Đối với lãnh đạo hội do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ ứng cử, thực hiện độ tuổi theo Quyết định số 118-QĐ/TW, ngày 22/8/2023 của Ban Bí thư và do cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ xem xét, quyết định.

Ban Thường vụ Thành ủy định hướng chức danh chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã là Đồng chí bí thư đảng uỷ hoặc phó bí thư thường trực đảng uỷ cấp xã kiêm nhiệm; Chức danh chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã là đồng chí phó bí thư đảng uỷ cấp xã, theo phương án nhân sự nhiệm kỳ 2025 - 2030 được phân công giữ chức vụ chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã; Chức danh phó chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã bố trí 01 đồng chí chuyên trách là uỷ viên ban thường vụ đảng uỷ cấp xã; Chức danh phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã cơ bản thực hiện theo phương án nhân sự cấp uỷ nhiệm kỳ 2025 - 2030 đã được phân công; Chức danh trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp xã do cấp trưởng cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy cấp xã kiêm nhiệm; Chức danh phó trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp xã bố trí 01 phó trưởng ban là đại biểu chuyên trách, trường hợp cấp có thẩm quyền có quy định khác về số lượng phó ban của Hội đồng nhân dân cấp xã thì thực hiện theo quy định của cấp có thẩm quyền.

Việc giới thiệu nhân sự ứng cử các chức danh chủ chốt Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã cơ bản thực hiện theo phương án nhân sự nhiệm kỳ 2025 - 2030 đã được cấp có thẩm quyền phân công. Định hướng nhân sự giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố ở các xã, phường, đặc khu là đồng chí bí thư cấp uỷ hoặc đồng chí phó bí thư thường trực đảng uỷ là chủ tịch Hội đồng nhân dân đủ điều kiện, tiêu chuẩn.

Hướng dẫn yêu cầu phát huy dân chủ, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong giới thiệu nhân sự ứng cử đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách. Đảng viên tự ứng cử đại biểu Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định, đồng thời, phải được cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền quản lý đảng viên đồng ý.

4. Chỉ thị của Ban Thường vụ Thành uỷ về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý, khai thác, sử dụng khoáng sản trên địa bàn thành phố

Ngày 20/10/2025, Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Chỉ thị số 02-CT/TU về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý, khai thác, sử dụng khoáng sản trên địa bàn thành phố. Ban Thường vụ Thành ủy yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tập trung triển khai các nội dung sau:

Thứ nhất, nêu cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, chủ động nắm chắc tình hình, tập trung lãnh đạo, phân công nhiệm vụ bảo đảm nguyên tắc 6 rõ (rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền) để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về khoáng sản. Nếu để xảy ra tình trạng buông lỏng quản lý, xảy ra vi phạm trong hoạt động thăm dò, khai thác, vận chuyển, tiêu thụ khoáng sản gây thất thoát tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường, mất an ninh trật tự, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và chính quyền địa phương thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm trước Ban Thường vụ Thành ủy.

Thứ hai, tiếp tục quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về khoáng sản. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về khoáng sản; tập trung chỉ đạo bảo đảm việc khai thác, sử dụng khoáng sản phải tuân thủ quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất trước khi triển khai, bảo đảm không xảy ra sai phạm trong công tác quản lý đất đai; việc sử dụng bến bãi để tập kết, trung chuyển khoáng sản phải phù hợp với quy hoạch và được cấp có thẩm quyền cho phép, bảo đảm quản lý chặt chẽ, tránh gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, an toàn giao thông và việc sử dụng đất hợp pháp; quản lý chặt chẽ việc sử dụng vật liệu nổ trong hoạt động khai thác khoáng sản; đối với khai thác cát, sỏi lòng sông, ven biển, phải kiểm soát nghiêm ngặt, không để gây sạt lở, ảnh hưởng hệ thống đê điều, dân sinh và các công trình ven biển.

Thứ ba, rà soát, điều chỉnh, bổ sung Phương án quản lý về địa chất, khoáng sản là hợp phần trong phương án bảo vệ môi trường, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên, đa dạng sinh học, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu bảo đảm phù hợp để tích hợp vào quy hoạch thành phố; Phương án quản lý về địa chất, khoáng sản phải gắn với nhu cầu vật liệu xây dựng, san lấp cho các công trình trọng điểm, khu công nghiệp, khu kinh tế, cảng biển, hạ tầng đô thị thành phố; rà soát, định hướng các khu vực mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, vật liệu san lấp phục vụ các dự án trọng điểm quốc gia và thành phố để thực hiện các thủ tục cấp phép khai thác khoáng sản theo Nghị quyết số 66.4/2025/NQ-CP ngày 21/9/2025 của Chính phủ; kịp thời công bố giá vật liệu xây dựng sát với thực tế, kiểm soát chặt chẽ hoạt động khai thác khoáng sản, ngăn chặn đầu cơ, thao túng giá, bảo đảm bình ổn giá vật liệu xây dựng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Quản lý chặt chẽ, khai thác hợp lý và bền vững tài nguyên khoáng sản biển, ven biển, hải đảo gắn với chiến lược phát triển kinh tế biển của thành phố. Rà soát, đánh giá tiềm năng khoáng sản biển, xây dựng phương án khai thác phù hợp, hạn chế tối đa tác động đến môi trường sinh thái biển, hệ sinh thái ven bờ, nguồn lợi thủy sản và đời sống ngư dân. Tăng cường phối hợp giữa các sở, ngành, địa phương, lực lượng công an, quân đội, hải quan trong quản lý hoạt động khai thác, vận chuyển, tiêu thụ khoáng sản trên địa bàn thành phố, đặc biệt là khoáng sản biển nhằm ngăn chặn tình trạng khai thác, buôn lậu trái phép qua biên giới biển.

Thứ tư, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khai thác, sử dụng khoáng sản, bảo đảm an toàn lao động. Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp quản lý thuế, phí, lệ phí. Đấu tranh chống các hành vi trốn thuế, gian lận thuế, phí; khai thác khi chưa hoàn thành thủ tục, khai thác vượt công suất, khai thác vượt ra ngoài ranh giới khu vực được phép khai thác, sai mục đích sử dụng đất. Kiên quyết đình chỉ hoạt động, tước quyền sử dụng hoặc thu hồi giấy phép, đóng cửa mỏ, cải tạo, phục hồi môi trường đối với những khu vực khai thác không hiệu quả, gây ô nhiễm môi trường theo quy định của pháp luật; xử lý nghiêm hoạt động khai thác, vận chuyển, buôn bán, xuất khẩu khoáng sản trái phép; rà soát, kiểm tra công tác đóng cửa mỏ đối với các giấy phép khai thác khoáng sản đã chấm dứt hiệu lực theo quy định.

Thứ năm, tăng cường chuyển đổi số trong hoạt động quản lý khoáng sản; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu địa chất và khoáng sản số, tích hợp công nghệ GIS, viễn thám và AI để giám sát và phân tích dữ liệu khoáng sản; ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số triển khai hệ thống giám sát trực tuyến, thiết bị định vị phương tiện vận tải để quản lý sản lượng và nguồn gốc khoáng sản; xây dựng cơ sở dữ liệu địa chất, khoáng sản tại địa phương, kết nối về hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Đẩy mạnh các hoạt động đổi mới và hiện đại hóa công nghệ sản xuất trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao động, hiệu quả khai thác, chế biến khoáng sản để nâng cao tỷ lệ thu hồi, giảm tổn thất tài nguyên khoáng sản trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản và nâng cao mức độ an toàn lao động, bảo đảm các quy định về bảo vệ môi trường. Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách thu hút tạo điều kiện hỗ trợ các nhà đầu tư nghiên cứu, sản xuất vật liệu thay thế cát, sỏi tự nhiên; chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong hoạt động nghiền, tái chế phế liệu, phế thải phát sinh trong hoạt động xây dựng làm vật liệu xây dựng, vật liệu san nền, góp phần giảm áp lực trong quá trình khai thác, tận thu khoáng sản, vật liệu tự nhiên.

Thứ sáu, rà soát các quy định về cơ chế tài chính trong hoạt động khoáng sản (thuế tài nguyên, thuế xuất khẩu, tiền cấp quyền khai thác, phí, lệ phí...), trên cơ sở thực tiễn tại địa phương, tham mưu, kiến nghị với các Bộ, ngành Trung ương về việc sửa đổi, bổ sung chính sách tài chính cho phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

Ban Thường vụ Thành uỷ yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương tổ chức tuyên truyền sâu rộng, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự đồng thuận của Nhân dân trong việc siết chặt kỷ luật, kỷ cương đối với công tác quản lý, khai thác, sử dụng khoáng sản trên địa bàn; đồng thời, đưa nội dung tăng cường công tác quản lý khoáng sản vào chương trình, kế hoạch công tác hằng năm của cấp mình, ngành mình để lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện.

5. Kế hoạch triển khai ứng dụng “Sổ tay đảng viên điện tử” tại Đảng bộ thành phố

Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Kế hoạch số 07-KH/TU, ngày 15/10/2025 về việc triển khai ứng dụng “Sổ tay đảng viên điện tử” trong toàn Đảng bộ thành phố. Việc triển khai được thực hiện tập trung, đồng bộ, thống nhất trong các cơ quan, tổ chức đảng, nhằm hỗ trợ đảng viên trong sinh hoạt đảng, học tập nghị quyết, góp phần nâng cao năng lực, trình độ, đạo đức, sức chiến đấu, trách nhiệm nêu gương của đảng viên; thống nhất một nền tảng ứng dụng số tránh đầu tư dàn trải, lãng phí.

Theo Kế hoạch, các cấp ủy và tổ chức đảng sẽ tập trung vào các nội dung chính: Các đảng uỷ trực thuộc Thành ủy, đảng ủy xã, phường, đặc khu phải chỉ đạo quán triệt, tuyên truyền sâu rộng đến toàn thể đảng viên, tạo sự thống nhất cao. Trên cơ sở đó, các đảng bộ xây dựng kế hoạch cụ thể phù hợp với tình hình thực tế. Công tác đào tạo, tập huấn cũng được chú trọng, dành cho cán bộ làm công tác xây dựng Đảng và cán bộ làm công tác chuyển đổi số của các ban đảng Thành ủy, đảng uỷ trực thuộc Thành ủy và các đảng ủy xã, phường, đặc khu.

Về thời gian, công tác tập huấn sẽ phải hoàn thành trước ngày 30/10/2025, với hình thức kết hợp trực tiếp và trực tuyến. Ứng dụng “Sổ tay đảng viên điện tử” sẽ được chính thức sử dụng từ ngày 01/11/2025.

Về cài đặt và chuyển giao, đảng viên sẽ tự thực hiện cài đặt ứng dụng trên thiết bị di động cá nhân, dưới sự chủ trì của bí thư chi bộ và hỗ trợ kỹ thuật từ cán bộ Viettel Hải Phòng. Các tài liệu hướng dẫn sử dụng và cài đặt ứng dụng sẽ được cung cấp dưới dạng điện tử và video trước khi tiến hành tập huấn.

Ứng dụng sẽ được triển khai trong toàn Đảng bộ thành phố, áp dụng cho toàn thể đảng viên chính thức, đảng viên dự bị (trừ đảng viên được miễn công tác và sinh hoạt đảng), các cấp ủy, chi bộ.

Ban Thường vụ Thành ủy giao Ban Tổ chức Thành ủy trực tiếp quản lý tài khoản hệ thống ứng dụng “Sổ tay đảng viên điện tử” của Đảng bộ thành phố và hướng dẫn nghiệp vụ tổ chức đảng, đảng viên được thực hiện trên ứng dụng, Văn phòng Thành ủy phối hợp bảo đảm hạ tầng kỹ thuật, an toàn thông tin và tổ chức hướng dẫn, hỗ trợ các cơ quan, tổ chức đảng cập nhật, sử dụng ứng dụng. Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy chịu trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, định hướng nội dung thông tin trên ứng dụng.

Các đảng uỷ trực thuộc Thành ủy, các đảng ủy xã, phường, đặc khu xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai ứng dụng “Sổ tay đảng viên điện tử” tại các cơ quan, tổ chức trực thuộc. Giao ban xây dựng đảng các đảng uỷ trực thuộc Thành ủy và các đảng ủy xã, phường; ban tổ chức các đảng ủy đặc khu quản lý tài khoản quản trị hệ thống của cơ quan, đơn vị mình trong quá trình triển khai ứng dụng “Sổ tay đảng viên điện tử”.

Các chi ủy, bí thư chi bộ có trách nhiệm phê duyệt, tạo tài khoản và hướng dẫn đảng viên sử dụng đúng quy trình, đảm bảo đảng viên sử dụng ứng dụng để học tập, nghiên cứu tài liệu và tham gia sinh hoạt đảng. Các đảng viên có trách nhiệm đăng ký, quản lý chặt chẽ tài khoản cá nhân được cấp và cập nhật chính xác thông tin, sử dụng ứng dụng theo đúng mục đích, quy định.

II. TIN TRONG NƯỚC – THẾ GIỚI

1. Một số nội dung, nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động của tổ chức cơ sở đảng thời gian tới

Ngày 03/10/2025, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 197-KL/TW về thực hiện một số nội dung, nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động của tổ chức cơ sở đảng thời gian tới, trong đó chỉ đạo triển khai một số nội dung chủ yếu sau: 

Khẩn trương tổ chức quán triệt và triển khai ngay Nghị quyết, Chương trình hành động của đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030. Tổ chức nghiên cứu, quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm, đồng bộ các quy định mới của Bộ Chính trị về công tác cán bộ, nhất là trong đánh giá, sử dụng cán bộ, bảo đảm dân chủ, công tâm, khách quan, minh bạch, xuyên suốt, liên tục, gắn với tiêu chí, sản phẩm cụ thể theo đúng chủ trương "có vào, có ra", "có lên, có xuống". Thực hiện tốt các nội dung theo chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của tổ chức cơ sở đảng và quy chế làm việc của cấp ủy cơ sở; trọng tâm là việc tổ chức kiểm điểm, đánh giá, xếp loại tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị năm 2025.

Đảng ủy Chính phủ kịp thời kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng đồng bộ với sắp xếp tổ chức bộ máy đối với một số cơ quan. Khẩn trương hoàn thành việc chuyển giao tổ chức đảng các doanh nghiệp nhà nước (tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước,…) về trực thuộc cấp ủy địa phương nơi đặt trụ sở (hoàn thành trong tháng 10/2025). Chỉ đạo xây dựng cơ chế, quy chế phối hợp giữa đảng ủy các bộ, ngành có liên quan, đảng uỷ các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước với cấp ủy địa phương, bảo đảm quản lý tốt đảng viên tại cơ sở, không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Chỉ đạo hướng dẫn cụ thể việc tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của tổ chức đảng, nhất là vai trò người đứng đầu cấp ủy trong các cơ sở giáo dục; không tổ chức hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục công lập (trừ các trường công lập có thỏa thuận quốc tế) và thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục theo đúng quy định.

Văn phòng Trung ương Đảng chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương và các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thành cơ sở dữ liệu đảng viên; triển khai thực hiện Sổ tay đảng viên điện tử và các phần mềm, ứng dụng theo kế hoạch, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng.

Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 23/7/2025 của Ban Bí thư về đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và các chủ trương lớn của Đảng. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức đảng phù hợp với sắp xếp tổ chức hành chính. Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức cơ sở đảng bảo đảm thực hiện đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

 

2. Đảng viên tiên phong trong học tập kỹ năng số

Phần I: Những chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước về chuyển đổi số

Chuyển đổi số, cùng với khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, được Đảng ta xác định là một trong những động lực quan trọng của phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Quá trình này không phải sự thay đổi đột ngột mà là kết quả của tích lũy, tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận, thể hiện qua một hệ thống văn kiện chỉ đạo mang tính chiến lược.

Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đặt nền móng cho tư duy chiến lược về chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển từ tư duy ứng phó sang tư duy kiến tạo và dẫn dắt, yêu cầu phát triển mạnh mẽ kinh tế số, xã hội số, đổi mới mô hình quản trị dựa trên dữ liệu và công nghệ số, nhấn mạnh vai trò then chốt của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Tiếp đó, ngày 26/5/2023, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan Đảng, coi đây là nhiệm vụ cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, yêu cầu người đứng đầu cấp ủy trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm chính trị về triển khai chuyển đổi số. Đặc biệt, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, xác định chuyển đổi số là một trong ba đột phá chiến lược của quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045, yêu cầu hoàn thiện thể chế, phát triển hạ tầng số, bảo đảm an toàn, an ninh mạng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng văn hóa số và phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong chuyển đổi tư duy, hành động và phong cách lãnh đạo số. Qua đó, có thể thấy sự phát triển nhất quán và toàn diện trong tư duy chỉ đạo của Đảng về chuyển đổi số, từ chủ động tham gia cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến xác lập chuyển đổi số là đột phá chiến lược trong xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị.

Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một hệ thống chính sách đồng bộ, chiến lược và hành động cao, đưa chuyển đổi số trở thành chương trình trọng tâm quốc gia. Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, đặt mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia số với nền kinh tế số năng động, xã hội số toàn diện, Chính phủ số hiệu quả, lấy người dân làm trung tâm, chủ thể và động lực. Ngày 15/6/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 942/QĐ-TTg, phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030, đặt mục tiêu đến năm 2025 cung cấp trực tuyến toàn trình 100% dịch vụ công đủ điều kiện, tích hợp trên Cổng dịch vụ công quốc gia, cùng các hệ thống báo cáo phục vụ điều hành, bảo đảm sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp. Ngày 31/3/2022, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 411/QĐ-TTg, phê duyệt Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, đặt mục tiêu đến năm 2025 tỷ trọng kinh tế số đạt 20% GDP; tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử đạt trên 80%; 100% cơ sở giáo dục phổ thông có khả năng tổ chức dạy học trực tuyến. Đồng thời, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 13/NQ-CP, ngày 07/02/2023 về tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động cơ quan nhà nước, coi nêu gương của người đứng đầu là tiêu chí đánh giá hoàn thành nhiệm vụ. Hệ thống pháp luật cũng được hoàn thiện với Nghị định số 42/2022/NĐ-CP, Nghị định số 53/2022/NĐ-CP và Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi, 2023), tạo nền tảng pháp lý cho vận hành chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Cùng với đó, nhiều đề án chuyên đề, chương trình mục tiêu ở các bộ, ngành, địa phương như: Đề án 06 của Bộ Công an, Đề án bệnh án điện tử của Bộ Y tế, Đề án dạy học trực tuyến của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình phổ cập kỹ năng số của Bộ Thông tin và Truyền thông đã được triển khai, thể hiện sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, hành chính công.

Trong quá trình triển khai, lãnh đạo Đảng, Nhà nước và bộ, ngành đã có nhiều phát biểu chỉ đạo quan trọng, khẳng định quyết tâm chính trị cao và định hướng chiến lược rõ ràng. Nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định phát triển nhanh, bền vững dựa vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là con đường tất yếu để hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường. Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII (tháng 10/2023), Nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh Đảng phải đi đầu trong chuyển đổi số, mỗi cấp ủy, tổ chức Đảng phải là hạt nhân tư tưởng và hành động trong đổi mới phương thức lãnh đạo, quản trị theo tinh thần số. Trong vai trò người đứng đầu Nhà nước, tại buổi gặp mặt 80 trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ tiêu biểu nhân dịp kỷ niệm 80 năm thành lập nước Việt Nam (tháng 8/2025), Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ chuyển đổi số trước hết là chuyển đổi tư duy của từng cán bộ, đảng viên, từng cơ quan, đơn vị, là bước đột phá trong lãnh đạo, quản lý và tổ chức xã hội theo tinh thần lấy dân làm trung tâm, dữ liệu làm nền tảng và hiệu quả phục vụ làm thước đo. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhiều lần khẳng định vai trò hạt nhân của người đứng đầu trong chuyển đổi số, coi đây là yếu tố quyết định để xây dựng cơ quan số, chính quyền số, đồng thời cảnh báo nếu không đi cùng chuyển đổi số sẽ bị tụt hậu. Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh chuyển đổi số là cuộc cách mạng về tư duy nhiều hơn công nghệ, đòi hỏi đổi mới tư duy quản trị, chính sách và phục vụ. 

Tổng hợp các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các phát biểu của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, bộ, ngành Trung ương cho thấy, quan điểm chỉ đạo về chuyển đổi số đã dần hình thành một hệ tư tưởng thống nhất, một hành lang định hướng rõ ràng. Đây là nền tảng chính trị vững chắc để cán bộ, đảng viên yên tâm hành động, chủ động đổi mới, mạnh dạn ứng dụng và không ngừng nâng cao năng lực số - từ đó góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng “Đảng số, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và công dân số”, theo đúng tinh thần các Nghị quyết của Đảng và Chiến lược quốc gia về chuyển đổi số đã được đề ra.

3. Kiểm soát chặt chẽ, tập trung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh và thực hiện thủ tục hành chính không phụ thuộc vào địa giới hành chính

Thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương đã tập trung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC), điều kiện đầu tư kinh doanh để tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân. Thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Phương án cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, điều kiện kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của 14 bộ, cơ quan ngang bộ; theo đó, dự kiến cắt giảm, đơn giản hóa 2.051/4.888 TTHC, đạt tỷ lệ 42%, cắt giảm 2.263/6.974 điều kiện kinh doanh, đạt tỷ lệ 32%; dự kiến sửa đổi, bổ sung 466 văn bản quy phạm pháp luật. Địa phương, hiện có 25/34 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã tích hợp, cung cấp dịch vụ công trực tuyến với TTHC liên quan đến doanh nghiệp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia đạt tỷ lệ trên 90%, trong đó có 04 địa phương đã đạt 100%; 34/34 địa phương đã công bố danh mục TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính trên địa bàn. 

Tuy nhiên, theo báo cáo của các bộ, địa phương và tổng hợp dữ liệu trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, hiện có tổng số 668 TTHC đặc thù của địa phương, trong đó có một số địa phương có số lượng TTHC đặc thù tăng lên; tỷ lệ TTHC liên quan đến doanh nghiệp được cung cấp trực tuyến của các bộ nhìn chung còn thấp so với mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 26/3/2025, trong đó 08 bộ đạt tỷ lệ dưới 50%; 03 địa phương có tỷ lệ tích hợp, cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với TTHC liên quan đến doanh nghiệp mới đạt dưới 70%; danh mục TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính của các tỉnh hầu hết mới đạt tỷ lệ khoảng từ 50% đến 95% TTHC đang được cung cấp, trong đó có địa phương mới đạt dưới 10%. Bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp tiếp tục phản ánh vẫn còn một số quy định TTHC rườm rà, điều kiện kinh doanh không cần thiết, kéo dài thời gian gia nhập thị trường,… 

Để cắt giảm tối đa các điều kiện kinh doanh và TTHC, tại Công điện số 187/CĐ- TTg ngày 04/10/2025, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu: 

Kiểm soát chặt chẽ và thực hiện nghiêm việc đánh giá tác động TTHC, rà soát, đánh giá điều kiện kinh doanh tại các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả việc tham vấn đối tượng chịu tác động đối với quy định TTHC, điều kiện kinh doanh, nhất là các TTHC, điều kiện kinh doanh tác động đến kinh tế tư nhân, liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp, hộ kinh doanh; nghiên cứu tiếp thu, giải trình đầy đủ và công khai việc tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý TTHC, điều kiện kinh doanh. Tập trung nâng cao chất lượng việc cho ý kiến, thẩm định đối với quy định TTHC trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành. 

Thực thi nghiêm túc, chất lượng, đúng thời hạn các phương án cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, điều kiện kinh doanh đã được phê duyệt; đồng thời, chủ động cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, điều kiện kinh doanh trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trong năm 2025 bảo đảm cắt giảm tối đa điều kiện kinh doanh, giảm tiền kiểm, tăng hậu kiểm, cắt giảm ít nhất 30% thời gian thực hiện TTHC, ít nhất 30% chi phí tuân thủ TTHC liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh. Công bố, công khai kịp thời, đầy đủ, chính xác các TTHC trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC để đội ngũ cán bộ, công chức và doanh nghiệp, nhân dân biết, thực hiện và theo dõi, giám sát, đánh giá quá trình thực hiện. Theo dõi, giám sát, đánh giá việc thực hiện TTHC sau khi ban hành; kịp thời phát hiện để sửa đổi, bổ sung những quy định, TTHC không còn phù hợp, làm cản trở sự phát triển của doanh nghiệp, hộ kinh doanh. 

Tập trung nâng cao chất lượng thẩm định quy định về TTHC tại các đề nghị, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức thẩm tra, có ý kiến độc lập về quy định TTHC tại các đề nghị, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các bộ, ngành, địa phương; bảo đảm chỉ ban hành mới và duy trì TTHC thật sự cần thiết, hợp pháp, hợp lý, với chi phí tuân thủ thấp nhất. Khẩn trương nghiên cứu, cải cách thủ tục cấp phép theo hướng cắt giảm, đơn giản hóa giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và triển khai trực tuyến, rút ngắn thời gian gia nhập thị trường; nới lỏng rào cản về danh mục hạn chế đầu tư; phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tháo gỡ ngay các khó khăn, vướng mắc doanh nghiệp gặp phải do quy định TTHC và thực hiện từ phía các cơ quan nhà nước, nhất là các TTHC liên quan đến đầu tư, gia nhập thị trường. 

Để thực hiện TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình cần rà soát, triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với 100% TTHC liên quan đến doanh nghiệp, bảo đảm thông suốt, liền mạch, hiệu quả, minh bạch, giảm tối đa giấy tờ, hoàn thành trong năm 2025. Tập trung hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành và đưa vào vận hành, kết nối với các cơ sở dữ liệu quốc gia (như đất đai, hộ tịch, xây dựng,…) đáp ứng yêu cầu dữ liệu đúng, đủ, sạch, sống, thống nhất, dùng chung, kết nối, chia sẻ dữ liệu đầy đủ theo thời gian thực với Cổng Dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh phục vụ cắt giảm, đơn giản hóa TTHC và triển khai dịch vụ công trực tuyến toàn trình dựa trên dữ liệu. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành việc tái cấu trúc quy trình, cung cấp dịch vụ công trực tuyến theo đúng mục tiêu, yêu cầu tại Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW, ngày 19/6/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, hướng dẫn của Văn phòng Chính phủ, nhất là các TTHC cho doanh nghiệp và TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh, cấp xã. 

Công khai kịp thời, đầy đủ danh mục và tổ chức thực hiện TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính trong phạm vi cấp tỉnh, giúp người dân thuận lợi lựa chọn nộp hồ sơ TTHC phù hợp với nơi cư trú, sinh sống, học tập, làm việc. Tổ chức thực hiện hướng dẫn, tiếp nhận, giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp, bảo đảm hiệu quả, thông suốt, tránh xảy ra ách tắc cục bộ, hoàn thành mục tiêu 100% TTHC được thực hiện không phụ thuộc vào địa giới hành chính trong phạm vi cấp tỉnh trong năm 2025. Hoàn thành việc chuyển dịch dữ liệu từ các Hệ thống thông tin của các tỉnh trước sáp nhập sang Hệ thống thông tin hợp nhất, dùng chung sau sáp nhập để phục vụ việc giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp; rà soát, bố trí đủ kinh phí, nhân lực, bảo đảm các điều kiện về trang thiết bị và hạ tầng mạng tại cấp xã phù hợp với quy mô, số lượng giao dịch thực tế, trong đó trước mắt các xã có số lượng giao dịch trung bình dưới 20 hồ sơ/ngày không bắt buộc phải trang bị máy lấy số, màn hình hiển thị, bảo đảm hiệu quả, tránh lãng phí, tạo tiền đề để vận hành đồng bộ, hiệu quả Trung tâm Phục vụ hành chính công.

4. Một số quy định mới của Đảng

* Tiêu chuẩn chức danh cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và khung tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp (theo Quy định số 365-QĐ/TW ngày 30/8/2025 của Bộ Chính trị)

Quy định số 365-QĐ/TW nêu cụ thể tiêu chuẩn chức danh cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý và khung tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị. Quy định này áp dụng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cá nhân có thẩm quyền trong công tác cán bộ. Đồng thời, áp dụng đối với cán bộ được xem xét quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, bố trí, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử vào các chức danh lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị ở Trung ương và địa phương.

Quy định này là cơ sở để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược có đủ đức, đủ tài, đủ tâm, đủ tầm, đủ sức, đủ nhiệt huyết cách mạng, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Các tiêu chuẩn chức danh cán bộ có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả "đức" và "tài", lấy phẩm chất đạo đức, lối sống làm gốc, năng lực, hiệu quả công tác là thước đo để lựa chọn cán bộ.

Tiêu chuẩn chung đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp gồm: chính trị, tư tưởng; phẩm chất đạo đức, lối sống và ý thức tổ chức kỷ luật; trình độ, năng lực; uy tín và khả năng quy tụ, đoàn kết; kết quả công tác; về sức khoẻ, độ tuổi và kinh nghiệm. Quy định cũng nêu rõ tiêu chuẩn chức danh đối với cán bộ thuộc diện trung ương quản lý, trong đó yêu cầu ngoài bảo đảm đầy đủ tiêu chuẩn chung thì đồng thời cũng phải đáp ứng các tiêu chuẩn của mỗi chức danh.

Ủy viên Trung ương Đảng phải là cán bộ tiêu biểu của Đảng về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tính tiền phong, gương mẫu, tính xây dựng, tính chiến đấu, tính hành động, tính kỷ luật, tính nhân văn, năng lực, uy tín về mọi mặt. Những người này cũng phải là những cán bộ được đào tạo cơ bản, có kiến thức toàn diện, được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược, tâm huyết, trách nhiệm, tích cực tham gia thảo luận, đóng góp, hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Có thành tích nổi trội, có kết quả, "sản phẩm" cụ thể trong quá trình công tác; có khả năng quy tụ, đoàn kết, thống nhất và huy động sức mạnh tổng hợp, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới ở lĩnh vực, địa bàn công tác được phân công quản lý, phụ trách. Có năng lực dự báo, xử lý, ứng phó kịp thời, hiệu quả những tình huống đột xuất, bất ngờ; có khả năng làm việc độc lập. Có tố chất, năng lực lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược; có hoài bão, khát vọng đổi mới vì nước, vì dân. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu, lợi ích nhóm. Là những người đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp dưới trực tiếp và tương đương.

Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng là những cán bộ trẻ; cơ bản đáp ứng được tiêu chuẩn của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Quyết liệt, hiệu quả trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; hiểu biết tình hình trong nước, khu vực và thế giới; có khả năng tham gia, đóng góp ý kiến và đề xuất những vấn đề thực tiễn đặt ra để Ban Chấp hành Trung ương Đảng thảo luận, quyết định. Những cán bộ ở vị trí này cũng phải qua thực tiễn công tác thể hiện có năng lực, tố chất lãnh đạo, quản trị, quản lý, hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ đã kinh qua, có triển vọng phát triển và có khả năng đáp ứng ngay khi có yêu cầu phân công, bố trí đảm nhiệm chức danh lãnh đạo các địa phương, cơ quan, đơn vị có cơ cấu Ủy viên Trung ương Đảng.

Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đồng thời cần có thêm các tiêu chuẩn như thật sự tiêu biểu, mẫu mực của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trí tuệ, ý chí chiến đấu, năng lực lãnh đạo, quản lý, quản trị, ý thức tổ chức kỷ luật; không bị chi phối bởi sự can thiệp, sức ép bên ngoài và lợi ích nhóm. Nhân sự phải quyết đoán, quyết liệt, hiệu quả trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; hiểu biết sâu rộng tình hình đất nước, khu vực và thế giới; nhạy cảm về chính trị, nhạy bén về kinh tế, am hiểu sâu sắc về xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; có ý thức trách nhiệm cao, có khả năng xây dựng chiến lược phát triển dài hạn cho đất nước, đóng góp ý kiến trong việc hoạch định đường lối, chính sách và phát hiện, đề xuất những vấn đề thực tiễn đặt ra để Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thảo luận, quyết định; có tâm, có tầm và trách nhiệm trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, bảo đảm sự kế thừa, phát triển, chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Những cán bộ này phải là Ủy viên chính thức Trung ương Đảng trọn một nhiệm kỳ trở lên; đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (bí thư; chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND) hoặc trưởng các ban, bộ, ngành, MTTQ, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương và tương đương. Trường hợp Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư công tác trong quân đội thì phải kinh qua chức vụ chủ trì cấp quân khu. Trường hợp đặc biệt do Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định. 

Quy định này thay thế Quy định 89-QĐ/TW, ngày 04/8/2017 của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và Quy định 214-QĐ/TW, ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý.

* Về việc kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị (theo Quy định số 366-QĐ/TW, ngày 30/8/2025 của Bộ Chính trị)

Quy định này thay thế Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 04/10/2023 của Bộ Chính trị về kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với các tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị; có hiệu lực từ ngày 30/8/2025; áp dụng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo, quản lý, tổ chức, cơ quan, đơn vị (gọi tắt là tập thể) và cá nhân trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.

Quy định ban hành nhằm mục đích bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ về kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị. Nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, tự soi, tự sửa, thấy được ưu điểm để phát huy, hạn chế, khuyết điểm để khắc phục; chủ động phát hiện, ngăn chặn biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Xây dựng tiêu chí để đánh giá tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị nhằm xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ làm căn cứ để bổ nhiệm, quy hoạch, sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng, sàng lọc, thay thế, kỷ luật, tạm đình chỉ công tác, cho thôi giữ chức vụ, từ chức, miễn nhiệm đối với cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, năng lực hạn chế, không hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, sáng tạo phục vụ người dân, doanh nghiệp, đóng góp vào sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Việc kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị cần bảo đảm các yêu cầu sau: Thống nhất về nguyên tắc, khung tiêu chí, phương pháp, thẩm quyền, quy trình, thủ tục đánh giá tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị theo phân cấp, bảo đảm đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Đánh giá phải dựa trên hiệu quả công việc, kết quả thực hiện nhiệm vụ, sản phẩm cụ thể gắn với vị trí việc làm, chức trách, nhiệm vụ theo số lượng, tiến độ, chất lượng. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tập thể, nhất là người đứng đầu và từng cán bộ, đảng viên; bảo đảm công tác kiểm điểm, đánh giá, xếp loại phải dân chủ, công tâm, khách quan, khoa học, đúng thực chất, chống hình thức. Đồng bộ với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và cải cách hành chính nhà nước, nhất là trong bối cảnh thực hiện chuyển đổi số.

Các nguyên tắc trong quá trình thực hiện: Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; kiểm điểm tự phê bình và phê bình nghiêm túc, cầu thị, trên tinh thần xây dựng, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất, đúng thẩm quyền, trách nhiệm. Thực hiện đánh giá theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, có tiêu chí và thông qua sản phẩm cụ thể; kết hợp giữa tiêu chí định tính với tiêu chí định lượng, trong đó, đặc biệt chú trọng các tiêu chí định lượng về kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ; xếp loại phản ánh đúng thực chất mức độ hoàn thành nhiệm vụ, được kiểm chứng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Việc kiểm điểm tập thể, cá nhân được thực hiện định kỳ hằng năm hoặc khi có yêu cầu. Việc đánh giá được thực hiện thường xuyên, liên tục trên cơ sở kế hoạch, chương trình công tác, nhiệm vụ được giao và làm căn cứ để đánh giá, xếp loại cả năm, nhiệm kỳ. Lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm trọng tâm, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống làm nền tảng, phương pháp, năng lực quản lý, điều hành làm cơ sở quyết định kết quả đánh giá. Gắn trách nhiệm cá nhân với tập thể; gắn kết quả của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý với kết quả của địa phương, tổ chức, cơ quan, đơn vị. Tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm thực hiện thống nhất, đồng bộ trong toàn hệ thống chính trị.

Bộ Chính trị quy định khung, mang tính nguyên tắc, chỉ đạo định hướng để các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức, cơ quan, đơn vị có trách nhiệm tiếp tục cụ thể hóa, nhất là nội dung kiểm điểm, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá phù hợp với đặc điểm ngành, lĩnh vực, chức trách, nhiệm vụ theo phân cấp quản lý, bảo đảm thống nhất, đồng bộ theo yêu cầu tại Điều 6, Điều 10 và Điều 18 Quy định này. Thực hiện thống nhất việc tập thể, cá nhân được kiểm điểm thì phải đánh giá, xếp loại. Kết quả đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là cơ sở để đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên. Đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên theo kết quả thực hiện nhiệm vụ tại chi bộ; đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức ở nơi giữ chức vụ cao nhất; đánh giá, xếp loại tổ chức đảng, tổ chức, cơ quan, đơn vị trên cơ sở kết quả đánh giá cấp uỷ, tập thể lãnh đạo, quản lý và cán bộ, đảng viên thuộc thẩm quyền quản lý.

Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong việc xây dựng kế hoạch công tác, phân công nhiệm vụ phù hợp với từng đối tượng tập thể, cá nhân gắn với mục tiêu, sản phẩm công việc; cấp nào trực tiếp quản lý, phân công công việc thì cấp đó đánh giá, xếp loại; bảo đảm liên thông, thống nhất trong công tác cán bộ; lấy kết quả đánh giá làm căn cứ để sàng lọc, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ; đồng thời, làm căn cứ để thay thế, tạm đình chỉ công tác, cho thôi giữ chức vụ, từ chức, miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý; có biện pháp quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động phù hợp với mức độ hoàn thành nhiệm vụ hoặc cho thôi việc khi không đáp ứng yêu cầu. Đề cao trách nhiệm của cấp ủy, tập thể lãnh đạo, nhất là người đứng đầu, trong đánh giá cán bộ thuộc quyền quản lý theo phân cấp. 

Ban hành kèm theo Quy định số 366-QĐ/TW là 05 bản phụ lục quy định về: Khung tiêu chí đánh giá đối với tập thể; Khung tiêu chí đánh giá đối với cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; Khung tiêu chí đánh giá đối với cá nhân giữ chức lãnh đạo, quản lý; Khung tiêu chí đánh giá đối với cá nhân không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; Khung tiêu chí đánh giá đối với đảng viên không làm việc trong hệ thống chính trị.

* Danh mục vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo của hệ thống chính trị (theo Quy định số 368-QĐ/TW, ngày 08/9/2025 của Bộ Chính trị)

Quy định số 368-QĐ/TW có hiệu lực từ ngày 08/9/2025, thay thế Kết luận số 35-KL/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Quy định này quy định về phạm vi, đối tượng, mục đích, yêu cầu, quan điểm, nguyên tắc và nội dung ban hành Danh mục vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo của hệ thống chính trị; áp dụng đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị.

Quy định số 368-QĐ/TW được ban hành nhằm xác định vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo của hệ thống chính trị, là cơ sở để thực hiện đồng bộ, thống nhất công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; là căn cứ quan trọng để xem xét việc xếp lương và phụ cấp đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị. Làm cơ sở để các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương cụ thể hóa, xây dựng danh mục vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo thuộc thẩm quyền quản lý. Bảo đảm yêu cầu xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; sự thống nhất, tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa các chức danh, chức vụ trong hệ thống chính trị; phù hợp tiêu chuẩn chức danh, chức vụ, vị trí việc làm của từng cơ quan, địa phương, đơn vị. Xác định chức từng địa phương, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị. Bảo đảm tính khoa học, thực tiễn, công bằng, minh bạch, khách quan, dễ thực hiện và sự kế thừa ổn định; tiến hành thận trọng, kỹ lưỡng. Xem xét, điều chỉnh một số chức danh, chức vụ chưa hợp lý. Khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ. Bảo đảm thực hiện nghiêm các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định; phát huy đầy đủ trách nhiệm cá nhân, trước hết là người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ.

Việc sắp xếp các chức danh, chức vụ lãnh đạo phải theo nguyên tắc cấp trưởng, cấp trên trực tiếp xếp theo nhóm, bậc chức vụ nào thì cấp phó, cấp dưới trực tiếp xếp theo nhóm, bậc tương ứng. Chỉ xem xét, sắp xếp đưa vào Danh mục các chức danh, chức vụ lãnh đạo chuyên trách, không sắp xếp các chức danh kiêm nhiệm. Một người đảm nhiệm nhiều chức vụ thì lấy chức vụ cao nhất để xác định vị trí công tác. Chức danh, chức vụ được xác định là tương đương khi được xếp cùng nhóm, cùng bậc, cùng hệ số phụ cấp, cùng đối tượng quản lý. Đối với các chức danh, chức vụ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý thì ngoài Quy định này còn thực hiện theo các quy định khác của Trung ương. Trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Ban hành kèm theo Quyết định là Danh mục vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo của hệ thống chính trị, gồm các nhóm: Nhóm I: Các chức danh lãnh đạo chủ chốt và lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Nhóm II: Các chức danh, chức vụ lãnh đạo thuộc diện Bộ Chính trị quản lý. Nhóm III: Các chức danh, chức vụ lãnh đạo thuộc diện Ban Bí thư quản lý. Nhóm IV: Khung chức danh, chức vụ lãnh đạo thuộc diện cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị quản lý.

5. Một số kết quả nổi bật trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Triều Tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm

Nhận lời mời của Tổng Bí thư Đảng Lao động Triều Tiên, Chủ tịch Quốc vụ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Jong Un, từ ngày 09 - 11/10/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm thăm cấp Nhà nước tới Triều Tiên và dự Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng Lao động Triều Tiên.

Đây là sự kiện chính trị đối ngoại quan trọng đối với cả hai Đảng, hai nước, đặc biệt là trong bối cảnh hai bên đang tích cực thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng của mỗi nước, hướng tới chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đại hội IX của Đảng Lao động Triều Tiên. Năm 2025 cũng là năm Việt Nam và Triều Tiên thiết thực kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao cũng như Năm Hữu nghị Việt Nam - Triều Tiên 2025.

Đoàn đại biểu Việt Nam đã nhận được sự đón tiếp hết sức trọng thị, chân tình, chu đáo với nhiều biệt lệ, thể hiện sự coi trọng đặc biệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân Triều Tiên đối với Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam và cá nhân đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm.

Chuyến thăm đã thành công tốt đẹp, thể hiện trên một số kết quả quan trọng sau:

Thứ nhất, chuyến thăm đã góp phần tạo xung lực mới và làm nồng ấm quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Triều Tiên. Hai nhà lãnh đạo đã dành nhiều thời gian để ôn lại lịch sử quan hệ lâu đời giữa Việt Nam và Triều Tiên do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kim Nhật Thành đặt nền móng và thể hiện sự trân trọng và cảm ơn về sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong các giai đoạn trước đây.

Thứ hai, thông qua trao đổi thẳng thắn, chân thành và thực chất giữa hai nhà lãnh đạo và với việc ký kết một số thỏa thuận hợp tác, chuyến thăm đã góp phần đưa quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Triều Tiên sang một giai đoạn mới. Theo đó, hai nhà lãnh đạo đã nhất trí về những phương hướng hợp tác lớn để thúc đẩy hợp tác giữa hai nước phát triển phù hợp với thế mạnh và mong muốn của nhau để qua đó đưa quan hệ phát triển bền vững, lâu dài.

Hai bên nhất trí thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực hợp tác cụ thể, đặc biệt về kinh tế, du lịch, văn hóa, giáo dục, thông tin truyền thông, y tế,… phù hợp với điều kiện của nhau cũng như các quy định quốc tế liên quan.

Thứ ba, hai nhà lãnh đạo đã dành nhiều thời gian để chia sẻ quan điểm, lập trường trong các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm. Tại cuộc Hội đàm, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chia sẻ quan điểm, lập trường nhất quán của Việt Nam là đóng góp cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới, trong đó có vấn đề trên Bán đảo Triều Tiên và Biển Đông.

Với những kết quả trên, có thể thấy, chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng Bí thư Tô Lâm và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tới Triều Tiên và dự Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng Lao động Triều Tiên là bước phát triển, cụ thể hóa đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng và Nhà nước, đó là độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển, coi trọng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, thể hiện tinh thần Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm, một đất nước đang trên đà đổi mới và đổi mới thành công trong cộng đồng quốc tế.

6. Một số nét chính về tình hình kinh tế thế giới 9 tháng năm 2025

Trong tháng 9/2025, chính sách tiền tệ toàn cầu bước vào giai đoạn điều chỉnh mới khi nhiều ngân hàng trung ương lớn cùng quyết định hạ lãi suất. Tuy nhiên, cũng vẫn có một số quốc gia vì những mục tiêu khác nhau không theo xu hướng. Điều này phản ánh áp lực tăng trưởng, lạm phát khác nhau trên thế giới. Tại Mỹ, sau cuộc họp ngày 17/9/2025, Cục Dự trữ Liên bang (Fed) quyết định hạ lãi suất 0,25 điểm phần trăm, đánh dấu lần cắt giảm đầu tiên trong năm 2025 và là lần thứ tư kể từ tháng 9/2024. Động thái này cho thấy khả năng Fed có thể tiếp tục định hình chính sách theo hướng nới lỏng thận trọng nhằm hỗ trợ tăng trưởng, trong bối cảnh lạm phát đã hạ nhiệt dần về gần mức mục tiêu. Trong cùng ngày, Ngân hàng Trung ương Canada cũng cắt giảm 0,25 điểm phần trăm để kích thích nền kinh tế. Ngân hàng Trung ương Anh giữ nguyên lãi suất do lạm phát vẫn cao gần gấp đôi mục tiêu. Trung Quốc tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản, dù Fed đã nới lỏng, để tránh rủi ro bong bóng tài sản và giữ ổn định tỷ giá nhân dân tệ, lựa chọn trạng thái “chờ đợi” nhằm giữ ổn định kinh tế - tài chính.

Tình hình kinh tế diễn biến khác nhau tại các quốc gia:

Tại Mỹ, ngày 25/9/2025, Tổng thống Donald Trump công bố loạt kế hoạch áp thuế quan mới, gồm 100% đối với thuốc có thương hiệu, 25% với xe tải hạng nặng, 50% với tủ bếp và 30% với đồ nội thất bọc nệm. Cùng với đó, kế hoạch áp phí 100.000 USD đối với thị thực H-1B gây lo ngại cho cộng đồng doanh nghiệp Mỹ và các quốc gia có nhiều lao động làm việc tại Mỹ như Ấn Độ. Trong bối cảnh này, đồng USD hồi phục nhờ số liệu kinh tế tích cực, khi chỉ số giá tiêu dùng cá nhân (PCE) tháng 8 tăng nhẹ 2,7% so với cùng kỳ và tăng nhẹ so với tháng 7. Loại trừ giá cả thực phẩm và năng lượng, PCE cơ bản - thước đo lạm phát hàng đầu của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Fed tăng 2,9%, bằng với mức tháng trước và cũng đúng với dự báo của thị trường. Đây là một cơ sở quan trọng củng cố kỳ vọng Fed tiếp tục hạ lãi suất.

Tại châu Âu, Ủy ban châu Âu (EC) đề xuất gói trừng phạt thứ 19 nhằm vào Nga, không chỉ nhắm đến ngân hàng, tàu chở dầu mà còn lần đầu tiên siết chặt các nền tảng tiền điện tử, đồng thời đề xuất chấm dứt nhập khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng(LNG) của Nga từ đầu năm 2027 và áp thuế quan với dầu mỏ Nga. 

Tại châu Á, Hàn Quốc tỏ ra thận trọng trong đàm phán thương mại với Mỹ do lo ngại nguy cơ khủng hoảng tài chính nếu chấp thuận các yêu cầu đầu tư quy mô lớn. Ấn Độ lại phản ứng khác khi phát động chiến dịch “swadeshi”, kêu gọi người dân dùng hàng nội địa thay thế hàng nhập khẩu, nhất là trong bối cảnh nước này bị Mỹ áp thuế quan 50%. 

Tại Trung Quốc có nhiều diễn biến mới: chính thức tuyên bố từ bỏ quy chế “nước đang phát triển” tại WTO, đồng thời nỗ lực mở rộng ảnh hưởng trong hệ thống tài chính toàn cầu thông qua việc mời gọi các ngân hàng trung ương khác gửi vàng tại Sàn giao dịch vàng Thượng Hải (SGE). Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) giữ nguyên lãi suất, trái ngược với động thái hạ lãi suất của Fed, qua đó duy trì xu hướng tăng giá của đồng nhân dân tệ.

Tại khu vực Mỹ Latinh, Argentina tiếp tục lún sâu trong khủng hoảng kinh tế, buộc chính phủ phải bán ra khoảng 1 tỷ USD dự trữ ngoại hối để bảo vệ đồng nội tệ, trong khi Mỹ cân nhắc thỏa thuận hoán đổi tiền tệ và mua trái phiếu chính phủ Argentina để hỗ trợ.

Trong các báo cáo mới nhất, các tổ chức quốc tế, như: OECD, IMF, UN và FR đều điều chỉnh kinh tế toàn cầu năm 2025 tăng so với dự báo trước đó. Cụ thể:

OECD ngày 23/9/2025 nâng dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới lên mức 3,2% năm 2025, mặc dù vẫn thấp hơn mức 3,4% năm 2024, nhưng đã tăng lên so với mức 2,9% dự báo tương ứng đưa ra vào hồi tháng 6/2025. Tuy nhiên, OECD cảnh báo, “những rủi ro đáng kể đối với triển vọng kinh tế vẫn còn” khi đầu tư và thương mại tiếp tục bị ảnh hưởng bởi mức độ rủi ro trong bất ổn chính sách và thuế nhập khẩu của Mỹ tăng cao. 

Tại báo cáo tháng 8/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã điều chỉnh nâng dự báo kinh tế toàn cầu tăng 3,0% trong năm 2025 (cao hơn 0,2 điểm% so với dự báo tương ứng hồi tháng 4). Lý do chủ yếu được đưa ra là mặt bằng thuế quan do Mỹ áp đặt không cao như mức thuế thông báo ban đầu (ngày 02/4/2025). Đồng thời, điều kiện tài chính cải thiện, nhất là khi USD giảm giá; chính sách tài khóa mở rộng tại một số quốc gia. Lạm phát toàn cầu được kỳ vọng sẽ giảm xuống tỷ lệ 4,2% trong năm 2025, riêng lạm phát tại Mỹ vẫn cao hơn mục tiêu 2,0%.

Trong báo cáo tháng 9/2025, Liên hợp quốc (UN) nhận định nền kinh tế thế giới năm 2025 tăng 2,5%, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2025. Tuy nhiên, tăng trưởng toàn cầu sẽ chậm lại trong những tháng tới do thương mại phải đối mặt với nhiều thách thức và bất ổn kinh tế vĩ mô gia tăng.

Theo các chuyên gia, dự báo quý cuối của năm 2025, tình hình quốc tế xuất hiện một số điểm sáng. Nền kinh tế thế giới tuy phục hồi còn chậm và không đồng đều giữa các quốc gia và khu vực, song nhìn chung xu hướng cải thiện được duy trì, tạo môi trường thuận lợi hơn cho thương mại và đầu tư toàn cầu. Đặc biệt, chính sách thuế quan của Mỹ đã bớt căng thẳng so với giai đoạn đầu công bố, góp phần hạn chế tác động tiêu cực đến dòng chảy thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, giá dầu thô và một số nguyên liệu cơ bản có dấu hiệu ổn định hơn, giúp giảm áp lực chi phí sản xuất và vận tải cho nhiều nền kinh tế, trong đó có Việt Nam. Các quốc gia là thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, như: Mỹ, EU và Nhật Bản cũng đang ghi nhận nhu cầu tiêu dùng có xu hướng cải thiện, tạo cơ hội để doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh xuất khẩu. Đáng chú ý, chu kỳ hạ lãi suất của nhiều ngân hàng trung ương lớn và các định chế tài chính quốc tế đang dần lan tỏa, qua đó không chỉ giảm áp lực chi phí vốn toàn cầu mà còn khuyến khích dòng vốn đầu tư chảy mạnh hơn về các nền kinh tế mới nổi. Đây là những yếu tố bên ngoài có thể góp phần tích cực vào triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong quý IV/2025.

7. Lễ mở ký "Công ước Hà Nội"

Từ ngày 25 - 26/10/2025, Lễ mở ký "Công ước Hà Nội" - Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng sẽ được tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu một nền tảng vững chắc để các nước cùng nhau hợp tác trong cuộc chiến chống tội phạm trên không gian mạng.

Trong những năm gần đây, tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, trong đó có tội phạm mạng, ngày càng trở nên gay gắt, gia tăng về quy mô và mức độ tác động, đe dọa đến môi trường an ninh và phát triển của tất cả các quốc gia.

Các cuộc tấn công mạng nhằm vào cơ sở hạ tầng, ngành công nghiệp trọng yếu, cơ quan hành chính công, trường học, bệnh viện,… thường xuyên xảy ra ở nhiều quốc gia. Một số sân bay lớn tại các nước: Anh, Bỉ, Đức đồng loạt rơi vào hỗn loạn, do một vụ tấn công mạng trong những ngày cuối tháng 9/2025. Cùng thời điểm đó, một nhóm tin tặc tuyên bố đánh cắp dữ liệu của hơn 8.000 trẻ em đang theo học tại các nhà trẻ ở thủ đô London của Anh; dữ liệu của khoảng 20 công ty quản lý tài sản tại Hàn Quốc cũng bị xâm nhập, gây rò rỉ thông tin về thuế, nhân viên và nhà đầu tư. Đây là những minh chứng rõ ràng cho thấy, rủi ro từ các cuộc tấn công mạng đang ngày càng phức tạp.

Sự gia tăng đáng báo động của tội phạm mạng cả về quy mô, mức độ phức tạp và phạm vi tác động ước tính đã gây thiệt hại cho kinh tế thế giới khoảng 8.000 tỷ USD trong năm 2023 và dự báo lên đến 10.500 tỷ vào năm 2025, lớn hơn GDP của hầu hết các nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres mới đây trong thông điệp gửi đến Diễn đàn An ninh mạng Toàn cầu (GCF) 2025 diễn ra ở Riyadh (Saudi Arabia) ngày 01/10/2025 đã khẳng định, mạng internet giữ vai trò trụ cột trong tiến trình đổi mới và phát triển, nhưng cũng là nơi mà mỗi “lỗ hổng” đều có thể trở thành mối đe dọa đối với xã hội và nền hòa bình. Tuy nhiên, nỗ lực xây dựng một không gian mạng an toàn đang vấp phải nhiều thách thức.

Trong bối cảnh công nghệ số hiện nay đang đối mặt nhiều rủi ro và nguy cơ về an ninh, đe doạ sự phát triển bền vững của hầu hết các quốc gia, "Công ước Hà Nội" ra đời nhằm góp phần tạo khuôn khổ pháp lý bao trùm, đáp ứng nhu cầu cấp bách về hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy pháp quyền trong không gian mạng.

  "Công ước Hà Nội" là kết quả đạt được sau gần 5 năm đàm phán liên tục và kéo dài (2021 - 2024), là dấu mốc quan trọng trong nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế nhằm ứng phó với những mối đe dọa ngày càng tăng trên không gian mạng.

  Công ước Liên hợp quốc về Tội phạm mạng đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng đồng thuận vào ngày 24/12/2024. Công ước đặt ra khung pháp lý về hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống tội phạm mạng, bảo đảm các nước thành viên, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, các quốc gia dễ bị tổn thương, được hỗ trợ, nâng cao năng lực đối phó với loại tội phạm này.

"Công ước Hà Nội" gồm 9 chương và 71 điều. Theo quy định tại Điều 64 của Công ước, Công ước của Liên hợp quốc về Tội phạm mạng được mở ký tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 25 - 26/10/2025 và có tên gọi là "Công ước Hà Nội". Việc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Công ước chống tội phạm mạng và tổ chức Lễ mở ký tại Hà Nội, là minh chứng cho tinh thần trách nhiệm của các quốc gia trong bảo vệ không gian mạng - tài sản chung của toàn nhân loại.

Thông điệp của Chủ tịch nước Lương Cường nhân sự kiện này đã nêu rõ: Việc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Công ước chống tội phạm mạng  và tổ chức Lễ mở ký tại Hà Nội, là minh chứng sống động cho tinh thần trách nhiệm của các quốc gia trong bảo vệ không gian mạng - tài sản chung của toàn nhân loại. Việt Nam mong muốn sự kiện này không đơn thuần chỉ là một thủ tục pháp lý, mà còn là nền tảng để thúc đẩy đối thoại, chia sẻ kinh nghiệm, tăng cường quan hệ đối tác giữa các chính phủ, tổ chức quốc tế, khu vực tư nhân và trở thành diễn đàn để thúc đẩy thực hiện Công ước của Liên hợp quốc và hợp tác toàn cầu trong chống tội phạm mạng.

Theo các nhà phân tích, Công ước Hà Nội được kỳ vọng sẽ trở thành bước ngoặt trong hợp tác toàn cầu chống tội phạm mạng. Không chỉ góp phần bảo vệ lợi ích an ninh, kinh tế và xã hội của từng quốc gia, Công ước còn hướng đến xây dựng một không gian mạng an toàn, lành mạnh, công bằng, phục vụ phát triển bền vững. Với vai trò chủ nhà, Việt Nam một lần nữa khẳng định hình ảnh một đất nước trách nhiệm, tích cực và sẵn sàng đồng hành cùng cộng đồng quốc tế trong nỗ lực ứng phó với những thách thức an ninh mới của thời đại số.

III. TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT

1. Ngày 03/10/2025, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 52-CT/TW về việc thực hiện bảo hiểm y tế (BHYT) toàn dân trong giai đoạn mới, Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp quán triệt và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các nhóm nhiệm vụ, giải pháp sau:

Một là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, đưa các chỉ tiêu bao phủ BHYT vào nghị quyết, chương trình phát triển kinh tế – xã hội hằng năm và dài hạn; phát triển đối tượng tham gia BHYT, đẩy mạnh bao phủ BHYT theo hộ gia đình; tiếp tục nâng mức hỗ trợ đóng BHYT cho các đối tượng chính sách, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người khuyết tật, người yếu thế, bảo đảm duy trì bền vững và tăng tỷ lệ dân số tham gia BHYT; đến năm 2026, tỷ lệ BHYT đạt trên 95% dân số, đến năm 2030 đạt mục tiêu bao phủ BHYT toàn dân.

Hai là, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về BHYT đáp ứng yêu cầu bao phủ toàn dân; nghiên cứu điều chỉnh mức đóng phù hợp với phạm vi quyền lợi; đa dạng hóa các gói BHYT bổ sung; huy động nguồn lực xã hội để phát triển bền vững Quỹ BHYT; mở rộng chi trả cho các dịch vụ phòng bệnh, quản lý bệnh mạn tính, khám sức khỏe định kỳ và sàng lọc sớm bệnh không lây nhiễm.

Ba là, đổi mới nội dung, hình thức, phương thức thông tin, tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BHYT đúng trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng nhóm đối tượng, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, đoàn thể, tổ chức và người dân về BHYT; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc tham gia BHYT, xác định việc tham gia BHYT là quyền lợi và trách nhiệm của mọi người dân và của toàn xã hội.

Bốn là, triển khai hiệu quả các đề án, chương trình, kế hoạch về y tế và BHYT; đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, đẩy mạnh việc nâng cao y đức của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, năng lực chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ trong phòng bệnh và khám, chữa bệnh BHYT, đặc biệt tại y tế cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, biển, đảo. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế dự phòng, khám, chữa bệnh BHYT, đồng thời có cơ chế kiểm soát hiệu quả phòng, chống lãng phí, lạm thu, tăng chỉ định dịch vụ y tế không hợp lý và các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý, sử dụng Quỹ BHYT, bảo đảm quyền lợi cho người tham gia BHYT. Triển khai các giải pháp nhằm giảm gánh nặng chi phí y tế cho người bệnh.

Năm là, tăng cường, nâng cao năng lực cho các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tổ chức thực hiện về BHYT ở Trung ương và địa phương; hoàn thiện cơ chế phối hợp thanh tra, kiểm tra, giám sát liên ngành, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, trục lợi BHYT; đa dạng các loại hình cung ứng dịch vụ bảo hiểm y tế; kiểm soát chi phí khám, chữa bệnh BHYT minh bạch, khoa học, nâng cao năng lực giám định BHYT. Triển khai đầy đủ các phương thức thanh toán BHYT, xác định phương thức hỗ trợ trực tiếp cho người tham gia BHYT khi sử dụng dịch vụ y tế; có giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT.

Sáu là, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số toàn diện công tác BHYT; tăng cường ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn để kiểm soát, giám sát dịch vụ khám, chữa bệnh BHYT, bảo đảm cơ sở dữ liệu quốc gia về BHYT liên thông, đồng bộ cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương với cơ sở dữ liệu quốc gia về y tế.

2. Nghị định số 251/2025/NĐ-CP, ngày 23/9/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung bổ sung một số điều của Nghị định số 172/2025/NĐ-CP, ngày 30/6/2025 quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức. Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 23/9/2025.

Nghị định số 251/2025/NĐ-CP sửa đổi Điều 22, 23 của Nghị định số 172/2025/NĐ-CP quy định về thẩm quyền và trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật đối với người đã thôi việc, nghỉ hưu.

Về thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với người đã thôi việc, nghỉ hưu, Nghị định quy định như sau:

- Trường hợp bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xóa tư cách chức vụ, chức danh thì cấp có thẩm quyền bầu, phê chuẩn, quyết định phê duyệt kết quả bầu cử, bổ nhiệm hoặc chỉ định giữ chức vụ, chức danh cao nhất ra quyết định xử lý kỷ luật, trừ trường hợp quy định tại 3, 4 bên dưới. Trong trường hợp này, cấp có thẩm quyền quyết định việc xử lý đối với các chức vụ, chức danh khác có liên quan.

- Trường hợp bị xử lý kỷ luật bằng hình thức khiển trách hoặc cảnh cáo thì cấp có thẩm quyền bầu, phê chuẩn, quyết định phê duyệt kết quả bầu cử, bổ nhiệm hoặc chỉ định giữ chức vụ, chức danh ra quyết định xử lý kỷ luật, trừ trường hợp quy định tại 3, 4 bên dưới.

- Đối với người giữ chức vụ, chức danh trong cơ quan hành chính nhà nước do Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn thì Thủ tướng Chính phủ ra quyết định xử lý kỷ luật.

- Đối với người giữ chức vụ, chức danh do Quốc hội bầu thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra quyết định xử lý kỷ luật.

Về trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật đối với người đã thôi việc, nghỉ hưu, Nghị định quy định:

- Trường hợp đã có quyết định xử lý kỷ luật của cấp có thẩm quyền đối với người đã thôi việc, nghỉ hưu có hành vi vi phạm trong quá trình công tác; căn cứ vào quyết định xử lý kỷ luật của cấp có thẩm quyền, cơ quan tham mưu về công tác cán bộ của cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật đề xuất hình thức kỷ luật, thời điểm xử lý kỷ luật và thời gian thi hành kỷ luật.

Trường hợp thuộc thẩm quyền xử lý kỷ luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì Thường trực Ủy ban Công tác đại biểu đề xuất hình thức kỷ luật, thời điểm xử lý kỷ luật và thời gian thi hành kỷ luật báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

Trường hợp thuộc thẩm quyền xử lý kỷ luật của Thủ tướng Chính phủ thì cơ quan có thẩm quyền quản lý, sử dụng trước thời điểm thôi việc, nghỉ hưu đề xuất hình thức kỷ luật, thời điểm xử lý kỷ luật và thời gian thi hành kỷ luật báo cáo Thủ tướng Chính phủ, đồng thời gửi tới Bộ Nội vụ để thẩm định, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

- Trường hợp chưa có quyết định xử lý kỷ luật của cấp có thẩm quyền đối với người đã thôi việc, nghỉ hưu có hành vi vi phạm trong quá trình công tác; cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật quy định ở trên quyết định việc xử lý kỷ luật và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

- Cấp có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật./.

Ban Xây dựng Đảng.

Phường Hồng An
QR Code
Tin liên quan
1 2 3 4 5  ... 
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Tin mới
Thư viện ảnh
Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 0
  • Tất cả: 0