ĐÌNH NƯỚC - PHƯỜNG HỒNG AN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Đình Nước thờ các danh tướng họ Phạm, đã có công phù vua Lê Lợi lập chiến công đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, giành lại chủ quyền cho dân tộc vào thế kỷ XV. Đình thuộc tổ dân phố Tân Thanh, phường Hồng An. Trước kia đình thuộc xã Vụ Nông, huyện Hiệp Sơn, phủ Kinh Môn. Theo các bậc cao niên trong làng thì đình được gọi là đình Nước bởi thời xưa được nhà nước cấp tiền để xây dựng. Đình còn có tên gọi khác là đình Năm Dân vì là đình của của cộng đồng năm xã trong tổng Vụ Nông về tế lễ, phụng thờ. Tên của ngôi đình mang tính đặc biệt, độc đáo trong hệ thống các ngôi đình thuộc thành phố Hải Phòng gợi nhớ cho du khách ấn tượng và sự mong muốn tìm tòi, khám phá về lịch sử ngôi đình. Ngày 27/01/2011 UBND thành phố Hải Phòng ký Quyết định số 150/QĐ- UBND V/v xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp thành phố đối với Đình Nước.

Từ trung tâm thành phố Hải Phòng, bằng các phương tiện và đi theo các ngả đường khác nhau, du khách ra quốc lộ 5, hướng về thủ đô Hà Nội, khoảng 13 km đến chợ Ga (chợ mang tên địa danh cổ thuộc xã Đại Bản, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng cũ). Từ đây rẽ vào tay phải đi vào đường trục chính của phường khoảng 0.5km là đến di tích đình Nước.
Tên Vụ Nông ( 務農),theo Hán tự nghĩa là chăm lo, siêng năng với công việc nông nghiệp. Trước đây nước ta là xã hội nông nghiệp cổ truyền, vì vậy nghề nông nghiệp được coi trọng và là công việc căn bản, đứng vào hàng đầu trong xã hội ( Dĩ nông vi bản). Vụ Nông, vùng đất mà con người đến đây dựng nghiệp thành trang ấp có muộn nhất vào thời tự chủ, thế kỷ X. Bởi theo thần tích được Hàn Lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm 1572, chép làng Vụ Nông thời thuộc Đường đã phụng thờ năm nhân vật là thiên thần. Thần tích chép, các vị thiên thần đã tuyên bố với Cao Biền ( Cao Biền là Thái thú nhà Đường, Trung Quốc, Thế kỷ VIII) đất này đã có chủ. Sau đó Cao Biền lập phù trấn yểm các thần với mưu đồ dành chủ quyền vùng đất. Nhưng các vị thần đã phóng sấm sét phá giải phù phép của Cao Biển. Sau đó Cao Biền đã phải cho dân Vụ Nông dựng miếu phụng thờ các Ngài. Cũng theo thần tích trên, vào thời Lý, nhà vua dẫn quân đi đánh giặc xâm lược Chiêm Thành đã đi đến trang Vụ Nông. Vua Lý đã được các vị thiên thần âm phù, sau khi thắng giặc, nhà vua đã ban sắc phong cho các thần, ban tiền công cho dân Vụ Nông xây dựng đền miếu để thờ các Ngài. Cuối Thế kỷ XIV, làng đã trở thành địa phương đông vui, trù phú nên mới có bẩy anh em họ Phạm tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, do Lê Lợi lãnh đạo chống quân xâm lược Minh. Sau này các Ngài được sắc phong làm Thành hoàng của nhiều làng trong vùng.
Xa xưa Vụ Nông là xã thuộc huyện Hiệp Sơn, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Niên hiệu Minh Mạng triều Nguyễn, hình thành cấp tổng, Vụ Nông là xã đứng đầu tổng, gồm: Vụ Nông, Khinh Dao, Phí Xá, Nguyễn Xá, Bắc Nguyễn, Dụ Nghĩa, Tuyền Đông và Lê Xá. Đến niên hiệu Duy Tân ( 1907-1916), Vụ Nông thuộc tổng Vụ Nông, huyện An Dương, phủ Kiến Thụy, tỉnh Kiến An.
Vụ Nông xưa cũng là quê hương có truyền thống khoa bảng, địa phương có Ngài Nguyễn Cảnh Quýnh, ông đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1514, làm quan đến chức Hiệu thảo Viện Hàn lâm. Hiện nay lăng mộ của ông vẫn còn tại địa phương và được dòng họ, dân làng phụng thờ.
Tháng 11, năm 1946, tại ngôi đình Nước nhân dân địa phương tập trung để chào đón Bác Hồ từ Pháp về thăm Hải Phòng và về Hà Nội. Sự kiện đó đã ghi vào ký ức sâu đậm của các bậc lão niên trong làng.
Theo ngọc phả, thần sắc làng Vụ Nông, đình Nước thờ bẩy anh em họ Phạm gồm sáu anh em trai và người em gái út. Sáu người con trai, ông Phạm Luận người anh cả, được vua ban tên hiệu là Ngọc Thanh, ông sinh ngày 12 tháng 9, hóa ngày 12 tháng 3, được thờ tại đình Vụ Nông. Người thứ hai là Phạm Thi, được thờ tại đình Đông. Người thứ ba là Phạm Thành, sinh ngày 5 tháng 11, không rõ ngày mất, được thờ tại đình làng Lực Nông. Người thứ tư là Phạm Tường, sinh 5 tháng 11, được thờ tại đình Tràng - Tiên Nông. Ngài thứ 5 là Phạm Tụng, sinh 5 tháng 11, được thờ tại đình An Phú. Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống quân xâm lược Minh xâm lược, cả bảy anh em đều có công lao to lớn, các ông được Lê Lợi phong chức Đại tướng quân, người em gái được phong Bình Khôi Công Chúa.

Khám thờ và tượng Thành hoàng
Trong tài liệu thần sắc của làng Vụ Nông, do ông Chánh Hương hội Nguyễn An Tuân, sao chép chính bản 6 sắc phong của một số vua triều Nguyễn như: Sắc vua Thiệu Trị năm thứ 6 (1846) 2 đạo; vua Tự Đức năm thứ 3 (1850), 1 đạo; vua Đồng Khánh năm thứ 2 (1887), 1 đạo; vua Duy Tân năm thứ 3 (1909), 1 đạo; vua Khải Định năm thứ 9 (1924), 1 đạo. Sắc phong của vua Thiệu Trị năm thứ 6 ghi: “…Ngọc Thanh uy Trấn quốc, Phạm phủ quân chi thần…Gia tặng Tuấn Lương chi thần…”. Sắc vua Khải Định thứ 9 ghi: “…Đương cảnh Thành hoàng, Ngọc Thanh, Uy chấn quốc, Phạm phủ quân tôn thần…”.
Theo các cụ cao niên, đình Nước được khởi dựng từ thời Lê Chính Hòa (1680- 1705). Đình Nước là ngôi đình lớn trong vùng, cột cái to lớn có đường kính 60 cm. Đình có mặt bằng kiến trúc chữ đinh gồm năm gian đại bái và ba gian hậu cung. Đình có ván sàn, lòng thuyền, tòa đại bái làm theo thức chéo đao, tầu góc, khuôn viên đình rộng trên 2 mẫu Bắc bộ, trước đình có hồ nước rộng, trong đình có nhiều đồ thờ tự tế khí, trang hoàng lộng lẫy. Năm 1946 thực dân Pháp biết đình là cơ sở kháng chiến của ta, nên chúng đã phun dầu vào đình để đốt, đình cháy tới 15 ngày mới hết. Năm 1991 nhân dân địa phương phục dựng lại hậu cung đình trên nền đất ngôi đình xưa, năm 2004 làm tiếp tòa đại bái đình.
Đình Nước hiện nay làm bằng vật liệu thiên nhiên kết hợp với vật liệu hiện đại. Đình nhìn về hướng Nam, hướng của ngôi đình cổ xưa. Đình có mặt bằng kiến trúc gần giống kiểu chữ đinh, bởi có giếng trời ở giữa hai tòa nhà. Tòa đại bái năm gian và ba gian hậu cung cũng là ba gian cung cấm.

Tòa đại bái bộ khung chịu lực bằng bê tông cốt sắt, gồm bốn bộ vì, hình thành ba gian chính và hai gian dĩ. Mái cấu trúc chéo đao, tầu góc, lợp ngói mũi. Cấu trúc các bộ vì theo thức vì nóc giá chiêng, vì nách thuận chồng ba con. Các rường thuận kê trên nhau bằng đấu vuông thắt đáy, trên đấu đắp trang trí nổi hoa sen cách điệu. Các thuận tạo dáng vỏ măng, chân cột được kê trên chân tảng tạo dáng quả bổng lớn. Các bộ vì được liên kết với nhau bằng hệ thống xà đai, tạo dáng vỏ măng. Tòa đại bái hệ thống cửa chính gồm ba gian, đóng theo thức cổ, cửa thùng khung khách. Bờ nóc mái đắp trang trí lưỡng long chầu nguyệt, hai đầu bờ nóc đắp kìm ngậm bờ nóc, đuôi kìm cong thành những hình tròn, biểu tượng vân cụm, ước vọng mưa thuận gió hòa của cư dân nông nghiệp. Khúc nguỷnh đắp con sô, các đầu đao đắp tổ hợp rồng chầu, phượng múa. Bậc thềm của tòa tiền tế được bó vỉa bằng những tảng đá xanh có kích thước lớn, dấu tích vật chất của ngôi đình cổ để lại. Từ tòa đại bái đi vào trong qua một khoảng sân nhỏ, dân gian gọi là thiên tỉnh ( giếng trời) mới đến tòa hậu cung. Tòa hậu cung khung chịu lực cấu tạo hai bộ vì, vì hai hàng chân cột, cấu trúc vì đơn giản theo kiểu vì quá giang. Hậu cung cũng là cung cấm có ba gian cửa, một cửa lớn ở giữa và hai cửa nhỏ hai bên. Trên vì nóc cửa giữa tòa hậu cung trang trí lưỡng long chầu nguyêt. Trong cung cấm có long khám, trong long khám có thần tượng của Ngài Phạm Luận, ngồi trong long ngai. Trong cung cấm hai bên tả, hữu, là hai ban thờ Thánh Vương phụ, Thánh Vương mẫu ( bố, mẹ Thành hoàng), thần tượng các Ngài được tạo tác gần đây.
Trải qua thời gian và bị giặc Pháp đốt phá, đình chỉ còn lại số cổ vật như sau:
- Voi đá:Số lượng một đôi, chất liệu đá xanh được tạo tác liền khối với bệ. Voi đá tạc rõ tai, mắt, mũi, ngà, vòi, đuôi voi vắt lên về phía sau. Ngà voi dài cong ôm phần vòi phía trước. Voi tạc trong tư thế nằm phủ phục chầu thánh. Qua các nét hoa văn tạo tác, xác định, voi được tạo tác vào Thế kỷ XVIII
- Bia đá: Chất liệu đá xanh, kiểu bia dẹt, khắc bốn mặt, trán bia tạo hình bán nguyệt. Diềm bia dật hai cấp không trang trí. Trên trán bia khắc nổi chữ Hán: “Kiều bia ký”, nội dung ghi những người công đức tiền làm cây cầu đá của làng. Bia dựng niên hiệu Tự Đức thứ 12 (1859).
Trước năm 1945, dân làng Vụ Nông tổ chức lễ hội dịp mùa xuân vào trung tuần tháng 3 âm lịch từ ngày 1 đến ngày 16. Nhân dân cả tổng Vụ Nông tổ chức rước các vị Thành hoàng tại năm đình về đình Nước để mở hội. Phẩm lễ rước theo các thánh có bánh dầy, xôi, lễ tam sinh. Lợn Ông Bồ của các giáp nuôi đến hội được rước ra đình và được làng tổ chức chấm điểm. Trong lễ hội còn có trò chơi dân gian như: đấu vật, đu tiên, chọi gà, đi cầu thùm, hát ca trù, hát chèo sân đình…Ngày nay nhân dân đang từng bước khôi phục, kế thừa, phát huy những nét sinh hoạt văn hóa tốt đẹp trong lễ hội truyền thống mà tiền nhân để lại. Ngoài ra vào các dịp ngày mồng một, hôm rằm, tết Nguyên đán nhân dân trong ngoài địa phương đến đình Nước dâng hương, chiêm bái rất thành kính, thể hiện sự tri ân tới các vị Thành hoàng đã có công với dân, với nước. Ngôi đình cũng là nơi giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Đình Nước tuy mới được khôi phục lại, nhưng vẫn mang phong cách kiến trúc của ngôi đình truyền thống. Đình thờ bảy anh em họ Phạm người địa phương đã đứng dưới cờ khởi nghĩa của An hùng dân tộc Lê Lợi chống quân xâm lược Minh. Những đóng góp của bảy anh em họ Phạm rất hiếm quý, bổ xung vào số lượng không phải nhiều của người Hải Phòng tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đình Nước ngày nay như một tượng đài để nhân dân địa phương, du khách xa gần chiêm ngưỡng bảy vị tướng trong một gia đình họ Phạm, khi sinh thời và khi đã mất luôn giúp nước, giúp dân.